Câu chuyện ở chợ đêm tính đến giờ đã 7 năm rồi. Suốt 7 năm đó, tôi không bao giờ quay lại chợ đêm nữa. Nhưng những ký ức ngày ấy như mới xảy ra hôm qua. Tôi nhớ từng chi tiết và kể khá hào hứng, đến nỗi sự hào hứng ấy lây sang cả Hoa Ngọc Linh. Từ lúc tôi kể chuyện cấp ba, Linh không hề chen ngang lời tôi, chỉ thi thoảng cười, thi thoảng nhấp ngụm café rồi tiếp tục lắng nghe như đang thưởng thức một bộ phim. Nhưng nghe đến chuyện chợ đêm, em không thể im lặng nữa mà phải nhổm người lên, vẻ mặt tràn đầy sự thích thú:
– Nghe giống phim Hàn Quốc ấy nhỉ? Thật không thế?
– Chém gió đấy! – Tôi đáp.
Linh cười rồi lắc đầu trước thói chớt nhả của tôi. Thay vì tìm hiểu lời tôi nói là thật hay bốc phét, em lại hỏi tiếp:
– Thế sau đó hai người hẹn hò hả?
– Không! – Tôi lắc đầu – Vẫn chỉ là bạn thôi.
Linh ngạc nhiên, đôi mắt em phạt một đường sắc lẻm thẳng mặt tôi (thực ra chỉ là lườm, nhưng mắt em sắc nên mỗi cái lườm là mỗi nhát dao):
– Con gái đã nắm tay người khác là chỉ có thích. Thế mà cuối cùng lại chẳng có gì là sao?
Châu nắm tay tôi không có nghĩa là em thích tôi hoặc em đã “đổ” hay cái vẹo gì lãng mạn như thế; con trai con gái ngày ấy nắm tay nhau đầy rồi! Nhưng nó cũng có nghĩa là cô bé đã mở lòng và cho tôi cơ hội tiến xa hơn nữa. Song tôi chẳng tiến, chẳng lui, chỉ giữ quan hệ bạn bè với em suốt năm lớp 11. Lý do vẫn chỉ một và duy nhất, nhưng tôi không muốn trả lời thẳng trước mặt Linh, đành ậm ừ:
– Ờ thì… tại ham điện tử quá, hổng nghĩ chuyện gái gú luôn!
Linh nói:
– Thật hả? Không chém gió chứ?
– Thật “chăm phần chăm”! – Tôi trả lời.
Em lại cười và cũng giống lần trước, chẳng hề truy vấn tôi nói thật hay góp gió tạo bão. Tôi hơi bị hẫng, lưng nóng bừng. Nói chuyện với một cô gái mà cổ cứ gật đầu, ừ hữ trước mọi lời lẽ của bạn và chẳng quan tâm chúng logic hay không, thực tình rất khó chịu. Tôi thầm trách ông trời không ban cho mình bộ mặt bảnh như thằng Sĩ, dáng người cao ráo như thằng Choác. Được vậy, Linh sẽ không bao giờ nghĩ tôi ba hoa. Con gái yêu vẻ bề ngoài mà! He he!
– Vậy… Châu hiện giờ thế nào? – Linh chợt hỏi.
Tôi ngạc nhiên:
– Sao tự nhiên hỏi thế? Linh quen biết Châu à?
– Không, không hề. – Linh lắc đầu – Chỉ là muốn biết thôi. Châu là cô gái tốt, đúng không? Phải biết người tốt kết cục ra sao chứ? Thông cảm, độ này xem phim Hàn nhiều nên lậm!
Hai đứa chúng tôi cùng cười vì sở thích của em. Rồi đợi tiếng cười qua đi, tôi trả lời:
– Châu sống rất tốt. Công việc ổn, gia đình hạnh phúc.
– Tùng có nói chuyện lại với Châu chứ?
– Không! Hồi năm trước, mình dò facebook của mấy đứa bạn cấp ba thì thấy facebook của Châu. Mutual friends ấy! Ờ, cũng chỉ vào xem mấy cái ảnh, thế thôi! Cũng chẳng add friend làm gì. Ờ… đại khái thế.
– Sao không add? Ngại à?
– Ờ… nhát gái khổ thế! – Tôi gãi đầu.
Tôi nhấp ngụm café rồi hỏi:
– Quà sinh nhật hồi năm lớp 10 mình tặng cho Linh, Linh nhận được không?
Lần này, tới lượt Linh im lặng. Em vuốt tóc, môi nở nụ cười bí ẩn như thách thức sự tò mò của tôi. Tôi đã biết trước kết quả, song vẫn mong chờ một điều kỳ diệu từ câu trả lời của em.
…
Sau buổi tối đáng nhớ ở chợ đêm, tôi vẫn duy trì mối quan hệ bạn bè với Châu, chẳng dám tiến xa hơn. Lý do duy nhất và muôn thuở là Hoa Ngọc Linh. Nửa cuối năm lớp 11, tôi tiếp tục vẽ, đạp xe tới con phố nọ và tặng tranh trước cửa nhà Linh. Kể cả những hôm không có tranh, tôi vẫn tạt qua. Lặp đi lặp lại như thế hàng chục lần nên mặt tiền nhà em ra sao, tôi nhớ từng chi tiết một. Từ cái cửa sắt màu xanh, ô cửa sổ treo chiếc chuông gió cho tới khoảng sân vương lá khô, tôi nhớ cả. Linh chẳng bao giờ xuất hiện, cũng không trả lời tin nhắn Yahoo, nhưng tôi chưa bao giờ từ bỏ hy vọng rằng tình cảm của mình sẽ được em đáp lại – một thứ hy vọng mong manh mơ hồ.
Trong khi đó cuộc sống ở lớp của tôi vẫn bình thường. Học, chơi điện tử, ăn uống nhậu nhẹt cùng ba thằng bạn, loanh quanh luẩn quẩn mấy thứ vậy thôi. Nhưng mỗi thứ lại thêm tí sắc màu khi Châu xuất hiện. Nhờ em, bọn tôi biết được nhiều chỗ ăn vặt hay ho, những món mới lạ và cả những hàng quán kỳ lạ, như cửa hàng xôi treo biển “Xôi hơi bị ngon” là ví dụ (khá hài hước, tôi không rõ quán đó còn tồn tại không). Em cũng chẳng khuyên tôi bớt chơi điện tử, chỉ hỏi xem tôi biến những ý tưởng từ game ra tranh vẽ thế nào. Từ trước tới nay, Châu khá thích thú với những tranh vẽ nhân vật game của tôi, nhưng bỗng một ngày nọ, em bảo tôi thế này:
– Tùng vẽ đẹp thật! Nhưng có bao giờ Tùng tự tạo ra nhân vật cho chính mình không? Copy lại tranh thế này không chán à?
Tôi có sở trường vẽ tranh fantasy, song các nhân vật trong tranh của tôi đều xuất phát từ những hình tượng có sẵn. Tôi vốn không nghĩ nó sẽ là vấn đề trên con đường trở thành họa sĩ của tôi. Tôi nói:
– Tôi muốn làm họa sĩ tạo hình game mà, nên giờ phải vẽ theo game thôi! Có gì sai à?
Cô bé lập tức bắn chữ tía lia (chơi với em nhiều nên tôi cũng quen kiểu nói nhanh kinh hồn này):
– Không sai, nhưng mà Tùng không nghĩ một nhân vật riêng cho mình à? Tớ không biết game, nhưng mỗi game có một nhân vật khác nhau, đúng không? Mỗi họa sĩ phải tạo ra nhân vật khác so với người khác. Giả sử Tùng thiết kế một nhân vật, chẳng lẽ nhân vật đó lại giống nhân vật của người khác à?
Tôi ngẩn người. Châu hơi dài dòng, nhưng đại ý của em đề cập chuyện cốt lõi nhất trong việc làm nghệ thuật: sự sáng tạo. Tôi nhận ra mình đang đi vào lối mòn của sao chép và ỷ lại người khác. Tôi vẽ nhiều, nhưng chưa bức tranh nào thực sự mang dấu ấn của riêng mình. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi gật gù:
– Ờ, cô nói nghe hay đấy! Để tôi vẽ thử!
– Thế chứ, vẽ xong rồi cho tớ xem nhé!
Kể từ ấy, tôi gần như bỏ việc sao chép hình tượng có sẵn, thi thoảng lắm mới vẽ lại để kiểm tra độ khó tạo hình hoặc tìm ý tưởng mới. Người ta nói “bạn là duy nhất, là một” – đúng, chẳng ai giống ai, nhưng người ta không hề nói “muốn thành công, bạn phải đặc biệt”. Nhờ Châu, tôi may mắn tìm ra chân lý ấy từ sớm. Những buổi đầu định hình phong cách riêng thực khó khăn; mỗi lần đặt bút vẽ, những hình ảnh cũ lại hiện lên và điều khiển đôi tay của tôi. Một lần nọ, tôi thiết kế một nhân vật chiến binh viễn tưởng và đưa cho Châu đánh giá. Em ngắm nghía rất kỹ rồi nói:
– Vẫn giống mấy bức vẽ cũ lắm! Mà sao nhân vật viễn tưởng cứ cầm súng hoài? Cầm cả súng lẫn kiếm không được à?
Ờ nhỉ? – Tôi tự nhủ. Thời đại viễn tưởng mà, ai cấm mình không được xài cái nọ cái kia? Nghe lời Châu, tôi bắt đầu vẽ lại bức tranh. Cứ thế, mỗi ngày tôi cố gắng từng chút một, sáng tạo hết mức có thể. Sau hai tháng, khi nhìn tranh tôi vẽ, Châu nở nụ cười:
– Tiến bộ rồi đấy! Trông khác hẳn!
Lời khen của em làm tôi rất vui. Tôi tin rằng mình đang đi đúng hướng trên con đường trở thành họa sĩ chuyên nghiệp. Tôi đã mơ như thế. Tôi không phải đứa duy nhất muốn đi trên con đường của riêng mình. Rất nhiều những con người thế hệ 90 đã mơ ước, thậm chí nhiều hoài bão hơn thế.
…
Lớp 11 nhanh chóng trôi về ngày bế giảng. Sau lễ bế giảng, tôi và Châu nán lại trên chiếc ghế đá dưới cây phượng vĩ, hai đứa chúng tôi thấy các anh chị cuối cấp trao nhau những dòng lưu bút, họ tạm biệt nhau và tiếp tục bước vào chặng đường cam go khác: kỳ thi đại học. Trông đám lớp 12, lòng tôi hơi lợn cợn bởi một năm nữa thôi, tôi cũng sẽ như họ. Tôi sẽ rời trường cấp ba và bước theo con đường riêng. Châu có cảm xúc giống tôi, em nói:
– Tùng đã định vào trường nào chưa?
– Trường… (xin phép không nêu tên), ở đó họ dạy môn thiết kế đồ họa. Hoặc không thì trường mỹ thuật. Một trong hai chỗ đó thôi! Thế còn cô?
– Tớ cũng muốn thi vào ngành mỹ thuật. Nhớ tớ bảo gì chứ? Tớ muốn trở thành họa sĩ vẽ truyện tranh!
– Vẽ hentai chứ gì? – Tôi cười khả ố.
Châu đấm tôi vài phát rồi nói nghiêm túc:
– Nếu sau này tớ trở thành mangaka (người sáng tác truyện tranh), Tùng có mua truyện của tớ không?
Ánh mắt của Châu rực cháy niềm tin kiên định rằng cô bé sẽ trở thành một mangaka thành công. Em có thực tài và không có gì phải nghi ngờ rằng một ngày kia, em sẽ thành công sớm hơn tôi. Tôi gật đầu động viên em:
– Yên tâm, tôi sẽ mua! Lúc ấy đừng quên thằng này nhé! Nếu tôi đang thất nghiệp mà cô cần trợ lý, tôi làm liền!
Em cười, hai bờ má ửng đỏ nhảy múa cùng nắng tháng năm. Sự vô tư hồn nhiên của em tiếp thêm sức mạnh cho tôi, khiến tôi tin rằng con đường mình đi là đúng.
Ba thằng bạn của tôi cũng có những ước mơ của riêng chúng nó. Chiều hôm ấy, tôi và bọn nó đạp xe ra Hồ Tây hóng mát. Ở nơi ấy, chúng tôi có thể phóng tầm mắt nhìn những dãy nhà bé tí ở bờ hồ bên kia, có thể ngắm những người câu cá kiên nhẫn cả ngày trên cây cầu lắt lẻo dẫn ra hồ. Ngày đó, người ta đã cải tạo xong con đường mới xung quanh hồ nên lũ trẻ con thường ra chơi và hò hét ầm trời. Bốn thằng chúng tôi thì chơi trò chơi của riêng mình: lia đá trên nước. Hồ Tây rộng lắm, rộng như cuộc đời, còn mỗi hòn đá chúng tôi lia ra như ước mơ của mỗi đứa. Đứa nào cũng ném hết sức để xem hòn đá bay được bao xa, để xem ước mơ đi được đến đâu giữa cuộc đời vô tận. Tôi vừa lia đá vừa hỏi:
– Chúng mày đã tính theo ngành nào chưa?
Thằng Sĩ phi đá. Đá đập khoảng bốn năm lần trên mặt nước rồi chìm xuống. Nó nói:
– Tôi muốn theo ngành marketing. Chắc tôi sẽ thi vào mấy trường kinh tế. Để xem lớp 12 thế nào đã, nhưng tôi chắc chắn theo ngành này.
Ông thần bảnh và chảnh này nói năng khá dứt khoát. Tới lượt thằng Cuốc, nó chọn hòn đá tròn vo, lia xuống nước chưa đập được phát nào đã chìm nghỉm. Nó trả lời bâng quơ:
– Tôi thế nào cũng được, miễn sao có bằng đại học. Cứ có bằng đại học đã, việc làm gì tính sau!
Thằng Cuốc nói hơi lưỡng lự, tính nó ba phải, xưa nay chỉ chúi mũi vào game nên cũng chẳng mơ ước gì to tát. Với nó, chỉ cần mỗi ngày được chơi game là hạnh phúc. Tới lượt thằng Choác, thằng này chọn mảnh đá dẹt, lia một cái, đá bay đập năm sáu lần trên nước. Nó cười:
– Ông già cứ bắt tao theo ngành kiểm toán của ổng. Nhưng tao đếch thích! Tao muốn theo học công nghệ thông tin. Cái đó hợp với tao hơn!
– Cơ mà ông già không cho mày đăng ký ngành công nghệ thông tin thì sao? – Tôi hỏi.
– Kệ mẹ! Ông già là ông già, tao là tao chứ!
Thằng Choác thuộc dạng đã nói là làm, họa trời mới cản nổi nó. Tôi tin rằng nó sẽ đi theo con đường đã chọn mặc cho bố mẹ phản đối thế nào chăng nữa.
Tới lượt tôi lia đá, ba thằng còn lại chẳng thèm hỏi tôi ước mơ làm gì bởi chúng nó đã biết quá rõ. Nhưng thằng Choác lại hỏi thế này:
– Nếu không được vẽ nữa thì mày làm gì?
Tôi lặng thinh trước câu hỏi của nó. Quả thực tôi đã giao phó cuộc đời mình cho nghiệp vẽ. Tôi tin rằng ngoài vẽ ra, mình chẳng làm gì nên hồn. Mỗi con người sinh ra có một biệt tài khác nhau, sẽ thật phí hoài nếu tôi chôn vùi khả năng của mình. Lúc ấy, tôi đã lia đá và trả lời thế này:
– Tao chẳng biết làm gì hết. Vì thế tao sẽ theo nghiệp vẽ!
Tôi chẳng nhớ hòn đá của mình đập nước bao nhiêu lần. Chỉ nhớ hôm đó tôi là người ném được xa nhất. Tôi mong ước mơ của mình cũng có thể bay xa như vậy.
Nhưng cuộc sống khắc nghiệt hơn tôi tưởng tượng. Chẳng có đam mê của đứa trẻ nào đủ sức chống chọi chiếc bánh xe khổng lồ mang tên “đại học”.